Đằng sau những giải Nobel của người Nhật là gì?

Có bao giờ bạn tự hỏi  tại sao nước Nhật lại giành được nhiều giải Nobel đến thế hay không? Điều này không hề đơn giản, phía sau mỗi giải Nobel là sự cố gắng không ngừng nghỉ, sự giúp sức của mọi người, của nhà nước Nhật Bản. Chúng ta cùng tìm hiểu qua bài viết mà Du học Thanh Giang tổng hợp được nhé.

Thứ nhất là nhà nước Nhật Bản rất quan tâm đầu tư phát triển KHKT

Sau Thế chiến II, Chính phủ Nhật coi khoa học kỹ thuật là công cụ chủ yếu để xây dựng đất nước, đã tập trung đầu tư rất lớn cho sáng tạo KHKT. Họ lập ra Hội Chấn hưng Khoa học Nhật Bản (JSPS, Japan Society for the promotion of Science) chuyên trách soạn thảo ấn định các dự án nghiên cứu KHKT. Hội này có tư cách pháp nhân hành chính độc lập, thực chất là một dạng quỹ đầu tư KHKT. Hội dựa vào kết quả thẩm định đánh giá công bằng để xét tài trợ cho những dự án nghiên cứu do các trường đại học là chủ thể thực thi, cũng như tài trợ cho các hoạt động giao lưu quốc tế. JSPS phụ trách cấp 60% toàn bộ kinh phí nghiên cứu khoa học có tính cạnh tranh do nhà nước đài thọ, là một trong những nguồn kinh phí nghiên cứu quan trọng nhất ở Nhật.

3 nhà khoa học nhận giải nobel vật lý năm 2014
3 nhà khoa học nhận giải nobel vật lý năm 2014

Chính phủ Nhật cấp kinh phí nghiên cứu KHKT cho các cơ quan nghiên cứu công lập như trường đại học, các viện nghiên cứu. JSPS lập ra Chương trình cấp kinh phí bổ trợ nghiên cứu khoa học, gồm các lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn, vật lý, hóa học, sinh học, kỹ thuật … và công bố các đề tài nghiên cứu, niên hạn nghiên cứu, tiêu chuẩn tuyển chọn nhân tài nghiên cứu và biện pháp sử dụng kinh phí. Kinh phí có các mức từ 0,5 triệu đến 200 triệu Yen và không đặt ra giới hạn trên đối với các đề tài trọng điểm. Trước thập niên 70 thế kỷ XX, ngân sách dành cho KHKT tăng bình quân hàng năm từ 10 đến 20%. Nguồn kinh phí dồi dào đã tạo điều kiện thực thi tốt các dự án nghiên cứu, kể cả dự án dài hạn 10-20 năm sau mới có kết quả. Từ đầu thế kỷ XXI, kinh tế Nhật tăng trưởng chậm lại, ngân sách KHKT không còn tăng lên hàng năm như trước, ảnh hưởng không nhỏ tới công tác nghiên cứu. Số nghiên cứu sinh tiến sĩ hiện nay giảm 15% so với năm 2003, tỷ lệ số bài báo khoa học của người Nhật từ 7,8% bình quân trong 20 năm trước giảm còn 5,4%.

Chú trọng nghiên cứu cơ bản

Khoa học cơ bản là nền tảng của công nghệ trong tương lai. Nếu muốn sinh viên sau này sẽ trở thành thủ lĩnh giới công nghệ thì nhà nước phải coi trọng và đầu tư vào khoa học cơ bản chứ không phải là đầu tư vào khoa học ứng dụng, vì lĩnh vực này sẽ được các công ty đầu tư.

Tất cả các nhà khoa học Nhật đoạt giải Nobel, kể cả hai người sau này vào quốc tịch Mỹ, đều tốt nghiệp các trường đại học công lập trong nước, rất nhiều người đã giành học vị tiến sĩ ở Nhật. Các trường đó đều là trường đại học kiểu nghiên cứu, rất chú trọng công tác nghiên cứu cơ bản. Nhà trường bảo đảm các nhà khoa học có thể tiến hành những đề tài nghiên cứu dài hạn sau đấy 10-20 năm mới có thể có ứng dụng. Các đề tài trung hạn thì cần chú trọng vào lĩnh vực công nghệ ứng dụng có thể đem lại hiệu quả kinh tế.

Sau khi ba nhà khoa học Nhật đoạt giải Nobel Vật lý 2014, báo chí Nhật nhận xét: công tác nghiên cứu khoa học ở Nhật có hai con đường: hoặc là con đường cạnh tranh công khai với các đối thủ khác, hoặc là con đường cô đơn một mình lặng lẽ nghiên cứu, không ai biết tới. Thí dụ nghiên cứu đèn LED là một đề tài rất khó, năm 1981 Akasaki từng báo cáo tại một hội thảo quốc tế nhưng không được ai quan tâm, tuy thế ông vẫn một mình kiên trì nghiên cứu, cho tới nay mới đạt kết quả được công nhận.

Các trường đại học Nhật có số cựu học sinh đoạt giải Nobel khoa học như sau: ĐH Tokyo – 3 người; ĐH Nagoya – 3; ĐH Kyoto – 3; ĐH Đế quốc Kyoto – 3; ĐH Đế quốc Tokyo – 2 (nếu kể cả Nobel Hòa bình và Nobel Văn thì là 4). Sáu trường ĐH có 1 cựu học sinh đoạt giải Nobel khoa học gồm: ĐH Tokushima, ĐH Kobe; ĐH Hokkaido; ĐH Nagasaki; ĐH Tohoku; Học viện Công nghệ Tokyo.

Coi nhà khoa học như thần tượng của giới trẻ

Xã hội Nhật có truyền thống đặc biệt coi trọng nhà khoa học. Các giáo sư đại học, các nhà nghiên cứu khoa học đều có địa vị cao hơn nhiều so với các giám đốc công ty, quan chức nhà nước và nghệ sĩ; các nhà khoa học được trả lương rất cao. Đồng bạc 1000 Yen in hình Noguchi Hideyo nhà sinh vật học nổi tiếng nước Nhật (1876-1928). Không người Nhật nào không biết tiểu sử các nhà khoa học lừng danh của họ. Giới phụ huynh đều dạy con em mình noi theo gương các nhà khoa học, coi đó là những thần tượng của lớp trẻ.

Chính vì những lý do này mà người Nhật Bản luôn đứng top đầu thế giới về số giải Nobel nhận được, đây là một điều vô cùng tự hào mà không phải quốc gia nào cũng có được.

Check Also

6 suối nước nóng nổi tiếng ở Nhật Bản

Báo Nhật – Đi du lịch Nhật Bản 5 ngày mà không tắm Osen thì …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *